Đánh giá trước điều trị viêm gan B là bước đầu tiên và vô cùng quan trọng đối với việc điều trị. Mối liên quan nhân quả giữa nhiễmviêm gan B và bệnh gan cần được thiết lập, đánh giá độ nặng của tình trạng bệnh cũng cần được thực hiện. Không phải tất cả bệnh nhân viêm gan B đều gia tăng liên tục men gan. Những bệnh nhân trong giai đoạn dung nạp miễn dịch vẫn có giá trị men gan ALT bình thường. Vì vậy việc theo dõi trong thời gian dài một cách liên tục và thích hợp là rất quan trọng.
CÁC ĐÁNH GIÁ TRƯỚC ĐIỀU TRỊ VIÊM GAN B
Đánh giá mức độ nặng của viêm gan B nên bao gồm:
- Các marker hóa sinh bao gồm: men gan ALT, AST, GGT, alkalin phosphatese, thời gian prothrombin và albumin huyết thanh.
- Công thức máu.
- Siêu âm gan.
Thông thường mức ALT cao hơn AST ở cùng một người, tuy nhiên, khi bệnh tiến triển đến xơ gan, tỉ lệ này có thể bị đảo lộn. Một sự giảm dần nồng độ albumin huyết thanh và sự kéo dài thời gian prothrombin thường xảy ra đồng thời với một sự sụt giảm số lượng tiểu cầu, được xem là đặc trưng sau khi xơ gan phát triển.
- Xét nghiệm định lượng HBV-DNA rất quan trọng đối với việc chẩn đoán cũng như việc quyết định điều trị và theo dõi sau đó của bệnh nhân. Tổ chức Y tế thế giới WHO đã xác định một tiêu chuẩn hóa quốc tế cho giới hạn của nồng độ HBV-DNA. Giá trị HBV-DNA huyết thanh được biểu diễn là IU/ml để dễ dàng so sánh; xét nghiệm này còn được dùng ở cùng một bệnh nhân để đánh giá hiệu quả chống virus.
- Những nguyên nhân khác của bệnh gan mãn tính cũng nên được xem xét một cách có hệ thống bao gồm việc đồng nhiễm với viêm gan C, viêm gan D hoặc HIV. Những bệnh đi kèm như bệnh gan do rượu, viêm gan tự miễn, bệnh gan nhiễm mỡ cũng nên được đánh giá.
- Sinh thiết gan sẽ được kiến nghị thực hiện để xác định mức độ viêm hoại tử và xơ hóa của những bệnh nhân tăng ALT hay HBV-DNA > 2000 IU/ml (hoặc cả hai) bởi vì hình thái học của gan có thể giúp ích cho việc quyết định bắt đầu điều trị. Sinh thiết gan cũng hữu ích cho việc đánh giá những nguyên nhân có thể khác của bệnh gan như gan nhiễm mỡ. Mặc dù sinh thiết gan là một thủ thuật xâm lấn, nhưng nguy cơ của những biến chứng trầm trọng là rất thấp (1/4000 – 10000). Điều quan trọng là kích thước của mẫu sinh thiết phải đủ lớn để phân tích được chính xác mức độ tổn thương gan và việc xơ hóa. Sinh thiết gan thường không được yêu cầu ở bệnh nhân với bằng chứng lâm sàng là đã xơ gan hoặc ở những bệnh nhân đã được chỉ định điều trị bất chấp giai đoạn hoạt động hay giai đoạn xơ hóa.
MỤC ĐÍCH TRONG ĐIỀU TRỊ VIÊM GAN B
Mục đích của việc điều trị viêm gan B nhằm để cải thiện cuộc sống và giúp bệnh nhân chung sống hòa bình với virus viêm gan B cũng như ngăn ngừa sự tiến triển của bệnh dẫn đến xơ gan, xơ gan mất bù, ung thư gan và cuối cùng là tử vong.
Mục đích này có thể đạt được nếu sự sao chép virus viêm gan B được ức chế một cách liên tục, việc giảm đồng thời hoạt động mô học của viêm gan mãn tính sẽ làm giảm nguy cơ xơ gan và nguy cơ ung thư gan ở những bệnh nhân chưa xơ gan và thậm chí là những bệnh nhân xơ gan với mức độ ít hơn. Tuy nhiên, việc nhiễm viêm gan B không thể hoàn toàn bị loại trừ bởi sự tiếp tục tồn tại của cccDNA trong nhân của những tế bào gan đã bị nhiễm.